Thứ Hai, 1 tháng 8, 2011

The Seven Demon Lord

Bài gửiTiêu đề: Review Seven Demon Lord   Sat Jan 01, 2011 10:45 am

7 Dấu hiệu của 7 Chúa Quỷ được xếp theo cấp độ:






7 Dấu hiệu tượng trưng cho 7 Hành tinh

+ Beelzemon là Digimon tượng trưng cho con quỷ Beelzebub



Beelzebub vốn là 1 thiên thần cấp cao trên thiên đàng ,làm nhiệm vụ cố vấn cho chúa . Beelzebub là tổng tư lệnh quân đội bên cạnh Lucifer trong cuộc chiến Hell vs Heaven .Sau khi thua trận bị giáng xuống làm quỉ dữ và được xem là “hoàng tử của địa ngục” . Beelzebub là chúa tể của những con ruồi – loài vật mang theo những bệnh dịch khủng khiếp nhất đã cướp đi sinh mạng của cả hàng triệu người . Beelzebub còn có thể biến thành hình dạng ruồi và tự tạo ra những cơn dịch bệnh .Là 1 con quỉ cực mạnh và là 1 trong những cộng sự đắc lực của Satan .



Beelzebub tượng trưng cho những tên bạo chúa , là người gây nên tập tục thờ phụng các con quỉ , là người đánh thức những dục vọng của các thầy tế , là người mang đến sự ganh tỵ ,sát nhân và chiến tranh . Beelzebub có 1 người bạn thân bị cầm tù ở vùng “Biển đỏ” là con quỉ 1 cánh – Abezethibou . Khi ở tận cùng của địa ngục , giọng của Beelzebub vang lên : “Ta , hoàng tử của địa ngục ,ta sẽ thừa kế sức mạnh đó và phá huỷ tất cả mọi thứ từ thời kỳ của Adam và con cháu của hắn tạo ra , kể cả khi đó là việc duy nhất ta phải làm “ – trong cuốn sách Gospel of Nicodemus được viết vào thế kỷ thứ 5 sau công nguyên.




+ Leviamon là Digimon tượng trưng cho con thủy quái Leviathan

Leviathan là 1 con quái vật biển khổng lồ do Chúa tạo ra và được nhắc đến trong Kinh Thánh . Leviathan là 1 con cá sấu khổng lồ lai hình dạng của 1 con rắn biển .1 tài liệu khác có nói Leviathan là con cá được tạo ra vào ngày thứ 5 của buổi sơ khai .Cùng với Leviathan là Behemoth mang hình dạng của 1 con bò khổng lồ . Leviathan còn được biết với hình dạng con người ,là vị thiên sứ thuộc vào bậc cao nhất bên cạnh chúa và cũng là người đã phản bội lại chúa , tham gia cuộc chiến Hell vs Heaven.



Leviathan theo ghi chép của kinh thánh

Trong "cuốn sách của Job"chương 41 , Leaviathan được miêu tả bằng những câu thơ cổ (được dịch từ thơ cổ nên ko chính xác lắm) :

“ Bộ vảy chính là niềm tự hào của nó
Im lặng như 1 con chó biển
Khi lại gần nó
Không khí dường như biến mất
Tiếng hắt hơi loé lên như ánh sáng
Và đôi mắt của nó….
Mí mắt như buổi bình minh
Hàm nó như ngọn đuốc bừng cháy
Trước lỗ mũi , khói luồn ra
Từ sôi cho đến cháy bỏng
Hơi thở (nóng) như than rực lửa
Như có ngọn lửa trong miệng nó
Cổ nó thật dài
Lấy hết can đảm khi đứng trước nó
Những bắp thịt rắn chắc và không cử động
Tim nó cứng như đá
Khi nó tỉnh dậy , nỗi sợ (của người tả) dâng trào
Kiếm không có tác dụng với nó
Kể cả giáo , mác và thương
Với nó , sắt chỉ như rơm , đồng chỉ là gỗ
Mũi tên không thể đuổi nó đi
Máy bắn đá chỉ bắn vào râu của nó
Nó cười trước tiếng rơi của giáo ,mác
Nó như 1 cây búa tạ trước vũng bùn
Với nó ,biển cả chỉ như 1 cái bình
Không có gì trên mặt đất giống nó
Được tạo nên bởi sự sợ hãi.”



+ Belphemon là Digimon tượng trưng cho con quỷ Belphegor



Belphegor cũng là 1 con quỉ phụng sự cho chúa . Belphegor đã thuyết phục con người và giúp họ tạo ra những phát minh và giúp cho họ giàu có .Vào thế kỷ 16 ,1 nhóm nghiên cứu ma quỉ tin rằng năng lực của Belphegor chỉ mạnh vào tháng 4 ,vì thế Belphegor còn được xem là biểu tượng của sự “lười biếng” .Khi được triệu hồi , Belphegor có thể giúp cho con người giàu có nhưng đồng thời gieo rắc sự bất hòa và cám giỗ họ dựa vào sự giàu có . Belphegor có tên gốc là Baal-Peor , là vị thần của tộc người Moabites . Khi người Isarel xâm lược , cưỡng hiếp phụ nữ và giết chết họ để tế thần thì Baal-Peor đã giết hết người Isarel lần đó


+ Barbamon là Digimon tượng trưng cho con Mammon



Mammon là thần của sự giàu có và tiền tài nhưng kèm theo đó là sự ám ảnh của quỉ dữ vì Mammon được xem là vị thần lừa dối trong Kinh Tân Ước .Mammon tượng trưng cho sự quí trọng thái quá đồng tiền ,vật chất và sự giàu sang – “chủ nghĩa duy vật” .Chữ "Mammon" theo tiếng Xy-ry có nghĩa là sự giàu sang và tiền tài. Từ thời trung cổ ,Mammon đã được công nhận là có thật và là con quỉ của sự giàu có , không ít người đã thờ phụng nó .Mammon còn là con quỷ của tính hám lợi và sự tham lam .
Trong cuốn sách “lạc mất thiên đường , Mammon được miêu tả :

“Mammon đã dẫn dắt họ….
Mammon đã cứu vớt linh hồn sa ngã
Từ thiên đàng , kể cả trong cái nhìn và suy nghĩ của hắn
Luôn là hạ cấp , và còn ngưỡng mộ hơn nữa
Vẻ ngoài giàu sang của thiên đàng , những tảng vàng
Còn hơn cả sự tuyệt diệu hay thần thánh
Trong cảnh tượng sung sướng ấy , bởi hắn là người đầu tiên
Kể cả đàn ông ,được sự chỉ dạy của hắn
Bằng việc cướp bóc và đôi tay tội lỗi
Vơ vét tình thương của Đất Mẹ
Cho một kho tàng ẩn dấu , sẽ sớm là của hắn
Mở đường đi tới ngọn đồi đau thương
Và đào sâu vào những đường gân của vàng…..”


Sự thờ cúng , cầu xin đối với Mammon




+ Lilithmon là Digimon tượng trưng cho con quỷ dâm dục Asmodeus




Asmodeus được đề cập tới trong Book of Tobit – cuốn sách cũng khá giống như kinh Cựu Ước . Asmodeus cũng được nhắc đến trong Kinh Thánh của vua Solomon và được miêu tả trên người còn có 2 đầu nữa : 1 đầu dê và 1 đầu ngựa . Asmodeus là vua của tầng địa ngục thứ 9 và là 1 trong 7 vị hoàng tử của địa ngục . Asmodeus là con quỉ của dục vọng ,của những ham muốn tình dục của con người (nhờ đó ta mới có tội phạm Hiếp Dâm) .


Trong Kinh Thánh của vua Solomon , Asmodeus được miêu tả là “ Đàn ông gọi ta là Gấu vĩ đại , 1 vài người khác gọi ta là đứa con của rồng . ta tượng trưng cho cái đẹp của các trinh nữ và là nguyên nhân làm cho trái tim họ lạnh giá” .Điểm yếu của Asmodeus là sợ nước. Mặc dù là hiện thân của dục vọng nhưng Asmodeus lại yêu cô gái tên là Sarah . Sarah có 7 đời chồng và đều giết chết chồng mình ngay trong đên tân hôn và cô vẫn còn là 1 trinh nữ , đó là lý do tại sao Asmodeus lại bị cô gái này quyến rũ.




+ Daemon là Digimon tượng trưng cho chúa quỷ Satan



Trong Thiên chúa giáo, quỷ Satan là một thiên thần do Chúa trời tạo ra, nhưng do nổi loạn chống đối nên đã bị đuổi khỏi thiên đường. Sau đó Satan đã trở thành thủ lĩnh của các thiên thần "hư hỏng". Quỷ Satan có rất nhiều tên giống như tính cách xảo trá và tàn ác của mình: thần tăm tối, cha gian dối, quỷ Luxe. Quỷ Satan chẳng phải nam hay nữ, nhưng trong các truyền thuyết, hoặc hình ảnh minh họa thường là nam giới, có cơ thể cường tráng và khuôn mặt dữ dằn với 2 chiếc sừng nhọn hoắt trên đầu. Quỷ Satan cũng có nhiều phép biến hóa, bay lượn và có nội lực khá cao, vương quốc của Satan ở dưới địa ngục và Satan có thể trực tiếp hoặc sai khiến các loại quỷ khác đi phá hoại thế giới .Kinh thánh có nhắc mục đích độc ác của Satan là tìm ra tội ác của con người và xuất hiện với tư cách là người buộc tội của họ


Bị đuổi khỏi thiên đàng

Trong cuốn sách “lạc mất thiên đàng” có nhắc đến hình ảnh quỷ Satan xuất hiện dưới dạng con rắn để cám dỗ ông Adam và bà Eva trong vườn địa đàng. Thượng đế tạo nên Adam và Eva nhưng lại không ban cho họ trí tuệ vì thế ông cấm 2 người ăn trái của “cây trí tuệ” .Satan đã biến thành con rắn dụ Eva ăn quả của cây “trí tuệ” , sau khi Eva ăn , Adam phát hiện ra thì đã quá muộn . Nghĩ rằng vì đã vi phạm điều cấm nên Eva sẽ chết , Eva chết đi thì Adam sống còn ý nghĩa gì nên Adam cũng ăn quả “trí tuệ” để mong được chết cùng Eva . Sau khi ăn , cả 2 bắt đầu có những nhận thức , trí tuệ , cảm xúc hỉ nộ ái ố…….và trong trạng thái nửa say nửa tỉnh . Trong trạng thái đó ,họ đã quan hệ với nhau . Điều này làm chúa nổi giận vì cho rằng họ đã làm ô uế thánh thần nên đuổi họ ra khỏi vườn địa đàng.


Trong cuốn kinh khác, Satan lại xuất hiện như con rồng đỏ đi đánh nhau với con người. Trong Kinh thánh cũng mô tả, quỷ Satan luôn tìm cách cám dỗ Chúa Giêsu, các thánh khác và gây rắc rối cho con người. Quỷ Satan được mô tả có tiếng kêu gầm gào như sư tử rống, luôn rình rập, lượn tìm để nuốt sống một ai đó. Satan rất "đa mưu túc kế", thâm độc, vì thế người ta mới có câu cửa miệng là "quỷ kế". Một trong những điểm mạnh nhất của quỷ Satan đó là khả năng thuyết phục, các trò xảo quyệt khéo léo vì thế Satan lôi kéo được rất nhiều "tay chân" để thực hiện các kế hoạch phá hoại của mình.




Nhiều quan niệm trong tôn giáo cho rằng Satan có khả năng nhập vào con người và biến những người đó thành những kẻ độc ác. Thậm chí chính Satan đã gây ra các bệnh tâm thần và là nguyên nhân của những vụ giết người.





+ Lucemon là Digimon tượng trưng cho vị thiên thần sa ngã Lucifer



Lucifer là người đã gây ra cuộc chiến “thiên đàng và địa ngục” ,là khởi nguồn của các loài quỉ dữ vì chúng vốn là những “thiên thần sa ngã” .Sau khi bị đày xuống địa ngục ,Lucifer đã trở thành Quỉ Vương Satan

The First Sphere – Những thiên thần cố vấn cho chúa

1 - SERAPHIM

2 - CHERUBIM

3 - THRONES

The Second Sphere – Những thiên thần bảo vệ chúa

4 - DOMINIONS

5 - VIRTUES

6 - POWERS

The Third Sphere – Những thiên thần truyền tin

7 - PRINCIPALITIES

8 - ARCHANGELS

9 - ANGELS



Trận giao chiến trên thiên đàng.

Cuộc chiến Hell vs Heaven được kể lại bởi thánh Gioan , trong sách Khải Huyền
Cuộc chiến này diễn ra trên Thiên Đàng , một bên là Lucifer và các thiên thần nổi loạn của mình giao chiến với một bên là Thiên Thần Michael và các thiên thần trung thành với Chúa.


Lucifer là một thiên thần "ngang tàng", Ngài ko làm theo chúa một cách máy móc và mù quáng.Lucifer là thiên thần có chức vụ cao nhất , đẹp đẽ nhất và hùng mạnh nhất trên Thiên đàng. Lucifer được chính Thiên Chúa yêu mến và giao cho nhiều trọng trách.

+ Ông nắm giữ chức danh Seraph : nhiệm vụ là cố vấn cho Chúa. , Lucifer quan sát , nghiền ngẫm và Ngài đã có những bất đồng với Chúa

+ Chức vụ Cherub : nhiệm vụ bảo vệ Thiên Chúa và các trưởng lão cũng như canh giữ “Đền thờ Chúa ở Zeruzalem” ( ngôi đền này do vua Solomon xây )

+ Chức vụ ArchAngle : thiên thần truyền tin và là tổng lãnh thiên thần , lãnh đạo của Tứ đại Thiên thần bao gồm Lucifer , Micheal , Gabriel và Raphael.



Ngày thứ 6 của tuần đầu tiên trên thế giới, một thiên thần tên là lucifer đã nổi dậy cùng 1/3 thiên thần khác để giành quyền thống trị với thượng đế.Theo Đức giáo hoàng John XXL và Giám mục Tusculum , có đến 133,306,368 thiên thần tham gia vào lực lượng nổi loạn của Lucifer. Và lược lượng này chiến đấu với đạo quân Thiên quốc của Tổng Thiên thần Micheal bao gồm 266,613,336 thiên thần trung thành với Chúa

Trước khi vào trận , Lucifer tuyên bố : “ Ta sẽ thâm nhập thiên đàng , ta sẽ dựng ngai vàng trên cả các vì sao của Chúa. Ta sẽ ngồi trên ngai vàng , ở vị trí cao nhất, trên đỉnh cao nhất của núi thánh. Ta sẽ vươn lên trên mọi vì sao, ta sẽ làm mình trở nên vĩ đại nhất.”

Với lực lượng động hơn gấp 2 lần và có sự hậu thuẫn của Đấng Tối Cao. Tổng thiên thần Micheal , với thanh gươm Longinus do Chúa ban cho , đã đánh bại cuộc nổi dậy của các “Thiên thần sa ngã”.



Cuộc chiến Thiên đàng và địa ngục

Lucifer cùng các thiên thần sa ngã bị tống ra khỏi thiên đàng và bị chuyển thành Ác quỉ ( chuyển từ Chúa trời => Thiên thần sa ngã => Quỉ dữ ).


Lucifer sau khi bị đày xuống địa ngục đã trở thành Satan – chúa quỉ của 18 tầng địa ngục



Thông tin ngoài lề:



Tên của các Thiên thần nổi tiếng của “The First Sphere” :


Seraphim:
* Seraphiel
* Metatron
* Uriel
* Nathanael
* Jehoel
* Chamuel
* Abaddon
* Asmodeus
* Astaroth
* Lucifer
* Leviathan
* Samael
* Semyazza

Cherubim:
* Cherubiel
* Ophaniel
* Raphael
* Uriel
* Zophiel
* Azazel
* Beelzebub
* Berith
* Lauviah
* Marou
* Salikotal
* Shamsiel

Throne:
* Bodiel
* Jophiel
* Zaphkiel
* Oriphiel
* Raziel
* Astaroth
* Gressil
* Focalor
* Forneus
* Murmur
* Nelchael
* Phenex
* Purson
* Raum
* Samael
* Sonneillon
* Verrine




Danh sách các thiên thần phản bội chúa :


FIRST SPHERE


*Seraphim

Abaddon
Asmodeus
Astaroth
Leviathan
Lucifer 

Samael
Semyazza



*Cherubim

Azazel
Beelzebub
Balberith
Lauviah
Marou


*Thrones

Gressil
Focalor
Forneus
Murmur
Nelchael
Pruflas
Raum
Sonneillon
Verrine



SECOND SPHERE

*Dominions

Balam
Marchosias
Nilaihah
Oeillet
Paimon
Rosier

*Virtues

Agares
Ariel
Barbiel
Barbatos
Belial
Purson
Sealiah
Senciner
Uzziel

*Powers

Amy
Beleth
Carnivean
Carreau
Procell
Goap
Wall
Vual



THIRD SPHERE

*Principalities

Belphegor
Imamiah
Nisroch
Nithael
Verrier

*Archangels

Ananael
Basasael
Mephistopheles
Rimmon
Rumjal
Sarfael
Zagiel

*Angels

Arakiba
Araqiel
Araxiel
Arioch
Armans
Asael
Anane
Antares
Armaros
Kasbeel
Atarculph
Azaradel
Azibeel
Azkeel
Azza
Badariel
Gadreel
Gurson
Hakael
Hosampsich
Iomuel
Jeqon
Jetrel
Omiel
Orus
Penemue
Rugziel
Sameveel
Samsapeel
Saraknyal
Shamsiel
Sariel
Seriel
Shaftiel
Simapesiel
Tabaet
Tamiel
Thammuz
Thausael
Tiril
Tumael
Turael
Urakabarameel
Xaphon
Yomyael
Zavebe 

_________________
:_-_

Chủ Nhật, 10 tháng 7, 2011

Father And Daughter

Black Hole (Hố Đen)

Lỗ đen, hay hố đen, là một vùng trong không gian có trường hấp dẫn lớn đến mức lực hấp dẫn của nó không để cho bất cứ một dạng vật chất nào, kể cả ánh sáng thoát ra khỏi mặt biên (chân trời sự kiện) của nó, trừ khả năng thất thoát vật chất khỏi lỗ đen nhờ hiệu ứng đường hầm lượng tử. Vật chất muốn thoát khỏi lỗ đen phải có vận tốc thoát lớn hơn vận tốc ánh sáng trong chân không, mà điều đó không thể xảy ra trong khuôn khổ của lý thuyết tương đối, ở đó vận tốc ánh sáng trong chân không là vận tốc giới hạn lớn nhất có thể đạt được của mọi dạng vật chất.
Khái niệm lỗ "đen" trở thành thông dụng vì từ đó ánh sáng không lọt được ra ngoài, nhưng thực ra lí thuyết về lỗ đen không nói về một loại "lỗ" nào mà nghiên cứu về những vùng mà không có gì có thể lọt ra được. Lỗ đen không biểu hiện như những ngôi sao sáng bình thường, mà chúng chỉ được quan sát gián tiếp qua sự tương tác trường hấp dẫn của lỗ đen đối với không gian xung quanh.
Lý thuyết về lỗ đen là một trong những lý thuyết vật lí hiếm hoi, bao trùm mọi thang đo khoảng cách, từ kích thước cực nhỏ (thang Planck) đến các khoảng cách vũ trụ rất lớn, nhờ đó nó có thể kiểm chứng cùng lúc cả thuyết lượng tử lẫn thuyết tương đối. Sự tồn tại của lỗ đen được dự đoán bởi lý thuyết tương đối rộng. Theo mô hình thuyết tương đối rộng cổ điển, không một vật chất hay thông tin nào có thể thoát ra khỏi lỗ đen để tới tầm quan sát bên ngoài được. Tuy nhiên, các hiệu ứng của cơ học lượng tử, không có trong thuyết tương đối rộng cổ điển, có thể cho phép vật chất và năng lượng bức xạ ra khỏi lỗ đen. Một số lý thuyết cho rằng bản chất tự nhiên của bức xạ không phụ thuộc vào những thứ đã rơi vào trong lỗ đen trong quá khứ, nói cách khác lỗ đen xóa sạch mọi thông tin quá khứ, hiện tượng này được gọi là nghịch lý thông tin lỗ đen. Nghịch lý này dần bị các lý thuyết mới đây loại bỏ và cho rằng thông tin vẫn được bảo toàn trong lỗ đen.
Từ năm 1964, khi ngôi sao "tàng hình" Cygnus X-1 của một hệ sao đôi nằm cách Trái Đất 8.000 ly trong chòm sao Thiên Nga được coi là chòm sao đầu tiên, chứng minh cho sự tồn tại của lỗ đen, các lỗ đen khác không chỉ được phát hiện trong Ngân Hà mà còn ở nhiều thiên thể khác. Lỗ đen không chỉ là những "xác chết" của những sao có khối lượng lớn hơn 1,4 MSun symbol.svg, khi chúng bùng nổ thành các siêu tân tinh trong phạm vi các thiên hà, mà hiện nay nhiều ý kiến cho rằng, tất cả các thiên hà đều chứa một lỗ đen siêu lớn trong vùng nhân.

 Lịch sử

Khái niệm một vật thể nặng đến độ ngay cả ánh sáng cũng không thể thoát khỏi vật đó đã được một nhà khoa học người Anh John Michell đưa ra vào năm 1783 trên một bài báo khoa học đăng trên tạp chí của Viện hàn lâm Hoàng gia Anh Quốc. Lúc bấy giờ, lý thuyết cơ học cổ điển của Isaac Newton về hấp dẫn và khái niệm vận tốc thoát đã được biết. Michell đã tính rằng, một vật thể có bán kính gấp 500 lần Mặt Trời và có mật độ bằng mật độ Mặt Trời thì vận tốc thoát ở bề mặt của nó bằng vận tốc ánh sáng, và do đó không ai có thể nhìn thấy nó.
Mặc dù ông nghĩ rằng điều đó rất khó xảy ra nhưng vẫn nghiên cứu khả năng rất nhiều các vật thể như thế không thể được quan sát trong vũ trụ.
Năm 1796, một nhà toán học người Pháp Pierre-Simon Laplace cũng đưa ra ý tưởng tương tự trong lần xuất bản thứ nhất và thứ hai của cuốn sách của ông, nhưng trong các lần xuất bản sau thì không đưa vào nữa[1][2]. Trong suốt thế kỷ thứ 19, ý tưởng đó không gây chú ý vì người ta cho rằng ánh sáng là sóng nên không có khối lượng, và do đó không bị ảnh hưởng bởi lực hấp dẫn.
Năm 1915, Einstein đưa ra một lý thuyết hấp dẫn gọi là lý thuyết tương đối rộng. Trước đó ông đã cho thấy ánh sáng bị ảnh hưởng bởi lực hấp dẫn. Mấy tháng sau, Karl Schwarzschild đã đưa ra nghiệm cho trường hấp dẫn của một khối lượng điểm và tiên đoán về lý thuyết sự tồn tại của một vật thể mà ngày nay được gọi là lỗ đen[3]. Ngày nay, bán kính Schwarzschild được coi là bán kính của một lỗ đen không quay, nhưng vào lúc bấy giờ người ta không hiểu rõ về nó. Bản thân Schwarzschild cũng từng nghĩ rằng nó không có ý nghĩa vật lý. Vài tháng sau, Johannes Droste, học trò của Hendrik Lorentz đã một cách độc lập đưa ra các giả thiết về các vật thể như vậy với mô tả cụ thể hơn.[4]
Vào những năm 1920, Subrahmanyan Chandrasekhar đã đưa ra tính toán cho thấy rằng một vật thể không quay có khối lượng lớn hơn một giá trị nhất định mà ngày nay được biết là giới hạn Chandrasekhar, sẽ suy sập dưới lực hấp dẫn của chính nó và không có gì có thể cản trở quá trình đó diễn ra. Tuy nhiên, một nhà vật lý khác là Arthur Eddington chống lại giả thuyết đó và cho rằng chắc chắn sẽ có cái gì đó xảy ra để không cho vật chất suy sụp đến mật độ vô hạn.[5]
Năm 1939, Robert Oppenheimer và H. Snyder tiên đoán rằng các ngôi sao khối lượng lớn sẽ phải chịu quá trình suy sập do hấp dẫn. Các lỗ đen có thể hình thành trong tự nhiên[6]. Trong một thời gian, người ta gọi các vật thể như vậy là các "ngôi sao bị đóng băng" vì sự suy sập sẽ bị chậm đi một cách nhanh chóng và ngôi sao sẽ trở nên rất đỏ khi đạt đến gần giới hạn Schwarzschild[7]. Tuy vậy, các vật thể nặng như thế không được quan tâm lắm cho đến cuối những năm 1960. Phần lớn các nhà vật lý, vào lúc đó, tin rằng lỗ đen là một nghiệm đối xứng cao đặc biệt do Schwarzschild tìm ra, và các vật thể bị suy sập trong tự nhiên sẽ không tạo nên các hố đen.
Việc nghiên cứu về lỗ đen trở nên sôi nổi vào năm 1967 do sự tiến bộ của lý thuyết và thực nghiệm. Stephen HawkingRoger Penrose đã chứng minh rằng các lỗ đen là các nghiệm tổng quát của lý thuyết hấp dẫn của Einstein, và sự suy sập để tạo nên lỗ đen, trong một số trường hợp, là không thể tránh được. Sự quan tâm đến lĩnh vực này còn được khởi phát từ việc tìm ra sao pulsar[8][9]. Ngay sau đó, nhà vật lý John Wheeler đã sử dụng từ "lỗ đen" để chỉ các vật thể sau khi bị suy sập đến mật độ vô hạn mặc dù trước đó một thời gian, từ "ngôi sao đen" thỉnh thoảng được sử dụng. Tên gọi lỗ đen này được ghi nhận đầu tiên năm 1964 trong ghi chép của Anne Ewing gửi Hiệp hội Tiến bộ Khoa học Hoa Kỳ.[10]

 Các khái niệm

Nghiên cứu lỗ đen yêu cầu các kiến thức về lý thuyết tương đối rộng của không-thời gian cong: tính chất đặc biệt nhất là sự biến dạng của không-thời gian xung quanh các lỗ đen.

[sửa] Chân trời sự kiện

Bài chi tiết: Chân trời sự kiện
Tập tin:Cygnus-X-1.jpg
Nguồn tia X Cygnus X-1 được nhiều người cho rằng nó có thể là một lỗ đen có khối lượng bằng 10 lần khối lượng Mặt Trời quay xung quanh một ngôi sao kềnh xanh.
"Bề mặt" của lỗ đen được gọi là chân trời sự kiện, đó là một bề mặt ảo xung quanh lỗ đen. Stephen Hawking đã sử dụng định lý Gauss-Bonnet để chứng minh rằng hình học tô pô của chân trời sự kiện của một lỗ đen (bốn chiều) là một hình cầu. Tại chân trời sự kiện, vận tốc thoát chính bằng vận tốc ánh sáng. Do đó, bất kỳ vật gì, kể cả photon bên trong chân trời sự kiện đều không thể thoát khỏi chân trời sự kiện đó vì trường hấp dẫn quá mạnh của lỗ đen. Các hạt bị rơi vào lỗ đen sẽ không thể thoát ra được.
Theo lý thuyết tương đối rộng cổ điển, các lỗ đen có thể hoàn toàn được đặc trưng bởi ba thông số: khối lượng, mô men động lượngđiện tích. Nguyên lý này đã được John Wheeler tóm tắt trong câu nói "lỗ đen không có tóc".
Các vật thể chuyển động trong trường hấp dẫn thì thời gian sẽ bị chậm đi được gọi là sự giãn nở của thời gian. Điều này đã được chứng minh bằng thực nghiệm trong một thí nghiệm phóng tên lửa do thám vào năm 1976 [1], và được tính đến trong Hệ thống định vị toàn cầu (GPS). Gần chân trời sự kiện, sự giãn nở thời gian xảy ra rất nhanh. Đối với một người quan sát từ bên ngoài thì họ sẽ đợi một khoảng thời gian vô tận để quan sát vật thể khi vật thể đến gần chân trời sự kiện vì ánh sáng từ vật thể bị dịch chuyển vô hạn về phía đỏ.

 Điểm kỳ dị

Tại tâm của lỗ đen, bên trong chân trời sự kiện, lý thuyết tương đối rộng tiên đoán có một điểm kỳ dị (singularity), tại đó độ cong của không thời gian trở nên vô hạn và lực hấp dẫn cũng mạnh vô hạn. Không-thời gian bên trong chân trời sự kiện rất đặc biệt, trong đó tất cả các vật chất đều chuyển động vào tâm mà không thể cưỡng lại được (PenroseHawking [2]). Điều này có nghĩa là tồn tại một sai lầm về khái niệm về lỗ đen mà John Michell đề xuất trước đây. Theo lý thuyết của Michell, vận tốc thoát bằng vận tốc ánh sáng, tuy vậy, vẫn còn một xác suất lý thuyết để vật thể có thể thoát ra giống như kéo vật thể ra ngoài bằng một sợi dây. Lý thuyết tương đối rộng loại bỏ những kẽ hở (loophole) như thế này vì vật thể nằm trong chân trời sự kiện thì thời gian tuyến sẽ có một điểm kết cho bản thân thời gian, và không thể có được vũ trụ tuyến khả dĩ mà có thể thoát ra khỏi lỗ đen được.
Người ta tin rằng những tiến triển hoặc khái quát hóa lý thuyết tương đối rộng trong tương lai (đặc biệt là hấp dẫn lượng tử) sẽ làm thay đổi suy nghĩ của chúng ta về phần bên trong của lỗ đen. Phần lớn các nhà lý thuyết đều giải thích điểm kỳ dị về toán học của các phương trình là dấu hiệu cho thấy lý thuyết hiện hành là không hoàn thiện, và rằng các hiện tượng mới sẽ được phát hiện khi ta tiến gần đến điểm kỳ dị. Câu hỏi này có thể rất hàn lâm vì giả thuyết giám sát vũ trụ đòi hỏi không thể có mặt các điểm kỳ dị trần trụi trong lý thuyết tương đối rộng: mỗi điểm kỳ dị phải nấp sau chân trời sự kiện và không thể bị khám phá.
Một trường phái tư tưởng khác cho rằng chẳng có điểm kỳ dị nào cả, bởi vì, các lực giống như lực gây ra thủy triều sẽ làm giảm mật độ vật chất khi nó đi xuyên qua chân trời sự kiện. Nếu một nhà du hành vũ trụ lỡ để chân của anh ta rơi vào lỗ đen thì các lực thủy triều dọc theo bán kính sẽ kéo đầu và chân của anh ta theo hai hướng ngược nhau và do đó, sẽ làm giảm mật độ (tức là tăng thể tích) trong khi đó thì lực thủy triều tại một bán kính không đổi có xu hướng kéo hai tay anh ta lại với nhau khi bán kính hội tụ, làm gia tăng mật độ (giảm thể tích). Tuy nhiên, tại chân trời sự kiện, bán kính đó lại song song với nhau trong giản đồ nhúng (giản đồ để hình dung nghiệm Schwarzschild trong không gian Euclide), không hội tụ, do đó, mật độ vật chất sẽ giảm và làm dừng quá trình suy sập hấp dẫn.

Đi vào một lỗ đen

BH-no-escape-1.svg
Ở khoảng cách đủ xa, các hạt có thể di chuyển tự do theo mọi hướng.
BH-no-escape-2.svg
Gần giới hạn chân trời sự kiện, không-thời gian bị uốn cong, các hạt có xu hướng chuyển động về phía lỗ đen.
BH-no-escape-3.svg
Phía trong chân trời sự kiện, các hạt đều chuyển động vào tâm lỗ đen, không thể thoát được.[11]
Ảnh hưởng của trường hấp dẫn của lỗ đen có thể xác định từ lý thuyết tương đối. Khi một vật thể tiến lại gần tâm của lỗ đen không quay (hố đen Schwarzschild) thì người quan sát từ xa sẽ thấy vật thể đó tiến đến chân trời sự kiện một cách chậm dần vì một quang tử từ vật thể đó phải mất một thời gian lâu hơn để thoát ra khỏi ảnh hưởng của lỗ đen để cho người quan sát biết số phận của vật thể đó.
Đối với bản thân vật thể, nó sẽ đi qua chân trời sự kiện và đến điểm kỳ dị, hoặc vào tâm của lỗ đen trong một khoảng thời gian hữu hạn. Khi nó đi qua chân trời sự kiện thì ánh sáng không thể thoát khỏi lỗ đen được nữa nên người quan sát ở ngoài lỗ đen sẽ không còn có thể biết thông tin của vật thể. Khi vật thể tiến gần hơn nữa đến điểm kỳ dị, nó sẽ bị kéo dài ra và ánh sáng phát ra từ phần vật thể gần lỗ đen nhất sẽ bị dịch chuyển đỏ (hiệu ứng Doppler cho ánh sáng) cho đến khi tất cả các phần biến mất. Gần điểm kỳ dị, sự sai khác của trường hấp dẫn giữa điểm gần và điểm xa trên vật thể rất lớn, điều này sẽ tạo nên một lực thủy triều làm cho vật thể bị kéo và bị xé ra, điều này được gọi là quá trình "tạo mì ống" (spaghettification).

Lỗ đen quay


Lỗ đen quay
Về lý thuyết, chân trời sự kiện của một lỗ đen không quay là một hình cầu, và điểm kỳ dị của nó là một điểm. Nếu lỗ đen có mô men góc (thừa hưởng từ ngôi sao quay trước khi bị suy sập thành lỗ đen) thì nó sẽ kéo theo cả không-thời gian xung quanh chân trời sự kiện. Vùng không gian xung quanh chân trời sự kiện được gọi là hình cầu sản công (Ergosphere) và có dạng một hình e-líp. Vì hình cầu sản công định vị bên ngoài chân trời sự kiện nên các vật thể có thể tồn tại bên trong hình cầu sản công mà không bị rơi vào hố đen. Tuy nhiên, vì bản thân không-thời gian chuyển động bên trong hình cầu sản công nên các vật thể không thể có một vị trí cố định. Các vật thể trượt trên hình cầu sản công vài lần có thể bị văng ra ngoài với vận tốc rất lớn và giải thoát năng lượng (và mô men góc) khỏi lỗ đen - do đó mới có tên "hình cầu sản công" vì nó có khả năng tạo ra công cơ học.

Entropy và bức xạ Hawking

Bài chi tiết: EntropyBức xạ Hawking

Vật chất rơi vào lỗ đen sẽ tập hợp lại với nhau tạo nên một đĩa bồi tụ quay rất nhanh và rất nóng xung quanh lỗ đen trước khi bị nó nuốt. Ma sát xuất hiện tại những vùng lân cận đĩa làm cho đĩa trở nên vô cùng nóng và được thoát ra dưới dạng tia X. Các tính toán khác tiên đoán các hiệu ứng trong đó các luồng hạt chuyển động rất nhanh với vận tốc gần bằng vận tốc ánh sáng được phóng ra ở hai trục của đĩa.
Năm 1971, Stephen Hawking chứng minh rằng diện tích của chân trời sự kiện của bất kỳ lỗ đen cổ điển đều không bao giờ giảm. Điều này tương tự như định luật thứ hai của nhiệt động lực học, trong đó vai trò của diện tích của chân trời sự kiện tương ứng với entropy. Người ta có thể vi phạm nguyên lý thứ hai của nhiệt động lực học bằng việc vật chất trong vũ trụ của chúng ta đi vào lỗ đen và do đó làm giảm entropy của toàn vũ trụ. Chính vì vậy mà Jacob Bekenstein giả thiết rằng lỗ đen cũng có entropy và entropy của nó tỷ lệ với diện tích của chân trời sự kiện. Tuy nhiên, 1974, Hawking áp dụng lý thuyết trường lượng tử cho không-thời gian cong xung quanh chân trời sự kiện của lỗ đen và phát hiện ra rằng các lỗ đen có thể phát xạ nhiệt - bức xạ mà hố đen phát ra được gọi là bức xạ Hawking. Sử dụng định luật thứ nhất của cơ học lỗ đen người ta thấy rằng entropy của lỗ đen bằng một phần tư diện tích của chân trời sự kiện. Đây là một kết quả phổ quát, có thể áp dụng cho chân trời vũ trụ trong không-thời gian de Sitter. Sau đó, người ta còn cho rằng, lỗ đen là các vật thể có entropy cực đại, tức là, trong vùng không-thời gian nào đó, entropy cực đại chính là entropy của lỗ đen chiếm vùng không thời gian đó. Điều này dẫn đến nguyên lý ảnh ba chiều (còn gọi là nguyên lý ảnh đa chiều).
Bức xạ Hawking xuất phát từ ngay bên ngoài chân trời sự kiện, và cho tới nay người ta vẫn hiểu là nó không mang thông tin từ bên trong lỗ đen vì đó là bức xạ nhiệt. Tuy nhiên, điều này có nghĩa là các lỗ đen không phải là hoàn toàn đen: hiệu ứng này ngụ ý rằng khối lượng của một lỗ đen sẽ dần dần giảm theo thời gian. Mặc dù hiệu ứng này rất nhỏ đối với người nghiên cứu lỗ đen, nó chỉ đáng kể đối với các lỗ đen siêu nhỏ được tiên đoán lý thuyết, mà ở đó, cơ học lượng tử có tác động chính. Thực ra, các tính toán cho thấy rằng các lỗ đen nhỏ có thể bị bay hơi và cuối cùng sẽ biến mất trong một đợt bùng phát bức xạ. Do đó, các lỗ đen mà không có nguồn bổ sung cho khối lượng của chúng đều có một thời gian sống hữu hạn, và thời gian đó liên hệ với khối lượng của chúng.
Vào ngày 21 tháng 7 năm 2004 Stephen Hawking tuyên bố rằng cuối cùng thì các lỗ đen sẽ giải phóng các thông tin mà chúng nuốt [3], đảo ngược lại quan điểm mà ông đưa ra trước đó là thông tin sẽ bị biến mất. Ông cho rằng, nhiễu loạn lượng tử của chân trời sự kiện có thể cho phép thông tin thoát ra từ một lỗ đen và ảnh hưởng đến bức xạ Hawking [4]. Lý thuyết vẫn chưa được các nhà khoa học phản biện, nhưng nếu nó được chấp nhận thì dường như chúng ta đã giải quyết được nghịch lý về thông tin lỗ đen.

 Nghiên cứu về lỗ đen

Sự hình thành


Hình miêu tả đĩa bồi tụ của lớp plasma quay xung quanh một lỗ đen (ảnh của NASA).
Lý thuyết tương đối rộng (cũng như các lý thuyết hấp dẫn khác) không chỉ nói rằng các lỗ đen có thể tồn tại mà còn tiên đoán rằng chúng sẽ được hình thành trong tự nhiên khi có đủ khối lượng trong một vùng không gian nào đó và trải qua một quá trình gọi là suy sụp hấp dẫn. Vì khối lượng bên trong vùng đó tăng lên, nên hấp dẫn của nó cũng mạnh lên, hay nói theo ngôn ngữ của thuyết tương đối, không gian xung quanh bị biến dạng. Khi vận tốc thoát tại một khoảng cách nhất định từ tâm đạt đến vận tốc ánh sáng, thì một chân trời sự kiện được hình thành mà trong đó vật chất chắc chắn bị suy sập vào một điểm duy nhất, tạo nên một điểm kỳ dị.
Các phân tích định lượng về điều này dẫn đến việc tiên đoán một ngôi sao có khối lượng khoảng ba lần khối lượng Mặt Trời, tại thời điểm cuối cùng trong quá trình tiến hóa hầu như chắc chắn sẽ co lại tới một kích thước tới hạn cần thiết để xảy ra suy sập hấp dẫn (thông thường các ngôi sao co lại chỉ dừng ở trạng thái sao neutron). Khi điều này xảy ra, không có bất kỳ lực vật lý nào có thể ngăn cản sự suy sập đó, và một lỗ đen được tạo thành.
Sự suy sập của các ngôi sao sẽ tạo nên các lỗ đen có khối lượng ít nhất gấp ba lần khối lượng Mặt Trời. Các lỗ đen nhỏ hơn giới hạn này chỉ có thể được hình thành nếu vật chất chịu tác động của các áp lực khác ngoài lực hấp dẫn của chính ngôi sao. Áp lực vô cùng lớn cần thiết để có thể gây ra điều này có thể tồn tại vào những giai đoạn rất sớm của vũ trụ, có thể đã tạo nên các lỗ đen nguyên thủy có khối lượng nhỏ hơn nhiều lần khối lượng Mặt Trời.
Các lỗ đen siêu lớn có thể có khối lượng gấp hàng triệu, hàng tỷ lần khối lượng Mặt Trời có thể được hình thành khi có một số lớn các ngôi sao bị nén chặt trong một vùng không gian tương đối nhỏ, hoặc khi có một số lượng lớn các ngôi sao rơi vào một lỗ đen ban đầu, hoặc khi có sự hợp nhất của các lỗ đen nhỏ hơn. Người ta tin rằng điều kiện để các hiện tượng trên có thể xảy ra ở một số (nếu không muốn nói là hầu hết) tâm của các thiên hà, bao gồm cả Ngân Hà của chúng ta.

Quan sát lỗ đen


Không có lỗ đen

Có lỗ đen

Vành Einstein
Lý thuyết cho thấy rằng chúng ta không thể quan sát lỗ đen một cách trực tiếp bằng ánh sáng phát xạ hoặc phản xạ vật chất bên trong lỗ đen. Tuy nhiên, các vật thể này có thể được quan sát một cách gián tiếp các hiện tượng xung quanh chúng như là thấu kính hấp dẫn và các ngôi sao chuyển động xung quanh một vật dường như vô hình.
Hiệu ứng đáng nghi ngờ nhất là vật chất rơi vào lỗ đen (giống như nước đổ vào đường thoát nước) sẽ tập hợp lại với nhau tạo nên một đĩa bồi tụ quay rất nhanh và rất nóng xung quanh lỗ đen trước khi bị nó nuốt. Ma sát xuất hiện tại những vùng lân cận đĩa làm cho đĩa trở nên vô vùng nóng và được thoát ra dưới dạng tia X. Quá trình nung nóng này cũng vô cùng hiệu quả và có thể biến 50% khối lượng của vật thể thành năng lượng bức xạ, trái ngược với phản ứng nhiệt hạch, trong đó, chỉ khoảng vài phần trăm khối lượng được biến thành năng lượng. Các tính toán khác tiên đoán các hiệu ứng trong đó các luồng hạt chuyển động rất nhanh với vận tốc gần bằng vận tốc ánh sáng được phóng ra ở hai trục của đĩa.
Tuy nhiên, các đĩa bồi tụ, các luồng hạt chuyển động nhanh, các vật thể chuyển động xung quanh một vật vô hình không chỉ có thể do lỗ đen gây ra mà còn có thể do các vật thể khác như các sao neutron chẳng hạn, và động lực học của các vật thể gần các "lỗ không đen" này rất giống như động lực học của các vật thể xung quanh lỗ đen và việc nghiên cứu về chúng là lĩnh vực nghiên cứu rất phức tạp và năng động hiện nay. Nó bao gồm ngành vật lý plasmatừ trường. Do đó, trong phần lớn các quan sát về đĩa gia tốc và chuyển động quỹ đạo chỉ cho biết về khối lượng của vật thể cô đặc mà thôi, chứ không cho biết về bản chất của vật thể đó. Việc xác định vật thể đó là lỗ đen yêu cầu các giả thuyết bổ sung là không có vật thể nào khác (hoặc các hệ liên kết với vật thể) có thể nặng và cô đặc đến thế. Phần lớn các nhà vật lý thiên văn chấp nhận rằng, trong trường hợp này, theo lý thuyết tương đối rộng, bất kỳ vật nào có mật độ vật chất đủ cao đều phải co lại thành một lỗ đen.
Một khác biệt quan sát quan trọng giữa các lỗ đen và các ngôi sao đặc, khối lượng lớn khác là bất kỳ vật chất rơi vào các vật thể khối lượng lớn thì cuối cùng cũng phải va chạm với vật thể đó với một vận tốc rất lớn, dẫn đến việc lóe sáng dị thường của các tia X với cường độ rất mạnh cùng với các bức xạ khác. Cho nên, nếu không có các lóe sáng bức xạ như thế xung quanh vật thể cô đặc thì có thể được coi là bằng chứng để cho rằng nó là một lỗ đen, nơi mà không có bề mặt để vật chất có thể va đập vào đột ngột.

Chúng ta đã tìm thấy lỗ đen chưa?

Ngày nay, có khá nhiều những bằng chứng thiên văn gián tiếp về hai loại hố đen:
Thêm vào đó, có một vài bằng chứng về các lỗ đen khối lượng trung bình có khối lượng vài ngàn lần khối lượng Mặt Trời. Đây có thể là các lỗ đen đang hình thành nên các lỗ đen siêu khối lượng.
Bằng chứng về các lỗ đen khối lượng ngôi sao chủ yếu được xác định bằng các đĩa gia tốc với kích thước và vận tốc vừa phải mà không có quá trình lóe sáng dị thường xuất hiện xung quanh các vật thể cô đặc. Các lỗ đen khối lượng ngôi sao có thể tạo ra các đợt bùng nổ tia gamma mặc dù các đợt bùng nổ này thường liên quan đến vụ nổ của các [
Từ các quan sát vào những năm 1980 về chuyển động của các ngôi sao xung quanh tâm của thiên hà, người ta tin rằng có những lỗ đen siêu khối lượng có mặt ở tâm của phần lớn các thiên hà, ngay cả Ngân Hà của chúng ta. Tinh vân Sagittarius A được coi là bằng chứng quan tin cậy nhất về sự tồn tại của một lỗ đen siêu khối lượng tại tâm của dải Ngân Hà.
Bức tranh hiện nay là tất cả các thiên hà đều có thể có một lỗ đen siêu khối lượng ở tại tâm, và lỗ đen này nuốt khí và bụi ở vùng giữa thiên hà tạo nên lượng bức xạ khổng lồ. Quá trình này tiếp tục cho đến khi không còn vật chất nào ở xung quanh nữa. Bức tranh này giải thích hợp lý về sự vắng mặt của nhiều các quasar gần đó. Mặc dù chưa hiểu về chi tiết, nhưng dường như là sự phát triển của lỗ đen liên quan mật thiết với các thiên hà có hình dáng tương tự hình cầu chứa nó như thiên hà hình e-líp, đám sao của thiên hà hình xoáy ốc. Điều thú vị là không có bằng chứng nào về sự có mặt của các lỗ đen khối lượng lớn ở tâm các đám sao hình cầu, cho thấy sự khác biệt cơ bản giữa các đám sao hình cầu với các thiên hà.
Việc hình thành các lỗ đen siêu nhỏ trên Trái Đất trong các máy gia tốc đã được công bố (xem thêm [5]) nhưng chưa được kiểm tra. Cho đến nay, người ta vẫn chưa tìm thấy bằng chứng về lỗ 
 ăm 2004, người ta phát hiện ra được một đám các lỗ đen, mở rộng tầm hiểu biết của chúng ta về phân bố các lỗ đen trong vũ trụ. Phát hiện này làm cho các nhà khoa học phải xem xét lại số lượng các lỗ đen trong vũ trụ. Theo các tính toán, người ta tin rằng số lượng các hố đen nhiều hơn tính toán trước đây đến năm bậc.
Tháng 7 năm 2004, các nhà thiên văn tìm thấy một lỗ đen khổng lồ Q0906+6930, tại tâm của một thiên hà xa xôi trong chòm sao Đại Hùng (Gấu Lớn, Ursa Major). Kích thước và tuổi của lỗ đen có thể cho phép xác định tuổi vũ trụ [6].
Tháng 11 năm 2004, một nhóm các nhà thiên văn công bố khám phá đầu tiên về lỗ đen khối lượng trung bình trong thiên hà của chúng ta, quay xung quanh Sagittarius A ở khoảng cách 3 năm ánh sáng. Hố đen trung bình này có khối lượng 1.300 lần khối lượng Mặt Trời nằm trong một đám gồm bảy ngôi sao, có thể là tàn dư của một đám sao lớn bị phần tâm của thiên hà tước đi phần lớn vật chất. (Tạp chí Nature)(bài gốc tiếng Anh). Quan sát này có thể củng cố ý tưởng về các lỗ đen siêu khối lượng phát triển bằng hấp thụ các lỗ đen và các ngôi sao nhỏ hơn.
Tháng 5 năm 2005, một ngôi sao kềnh xanh SDSS J090745.0+24507 được tìm thấy đang rời khỏi Ngân Hà với vận tốc gấp đôi vận tốc thoát (0,0022 vận tốc ánh sáng). Người ta có thể lần theo lộ trình của ngôi sao đó ngược trở lại tâm của thiên hà.
.
Một số hình ảnh:

Thứ Bảy, 2 tháng 7, 2011

Bí Ẩn Của Những Cái Chết & Bóng Ma ( Cấm yếu tim nhá )


Clip này nói về cảnh sát đang đuổi theo 1 chiếc xe chạy lạng lách nhưng không hiểu sao chiếc xe đó lại chạy xuyên qua hàng rào.


Clip này thì coi chuẩn bị tâm lý đoạn đầu và khúc cuối nhé :D




Clip này tự xem và khám phá

Them Song (Lux Aeterna)

Thứ Sáu, 1 tháng 7, 2011

Bí Ẩn Kim Tự Tháp Giza ( Phần IV )

Đây là phần 4 cũng là phần cuối cùng của Kim Tự Tháp Giza, sau bài này mình sẽ post một số clip và một bài nói về những hồn ma và con người chết đi sống lại, mình khuyên những bạn yếu tim đừng nên thử nhá, vì mình cũng tự tin lắm nhưng mém đứng tim vì coi lúc giữa khuya khoảng hơn 12:30, làm nín thấy bà không dám đi vệ sinh :D


Bí ẩn các kim tự tháp Giza, Ai Cập (Phần 4)

Như vậy, các kim tự tháp Giza là những tượng đài hoàn toàn thuộc về một thời đại xa xôi, khi một nền văn minh lớn đã phát triển rực rỡ chết đi và chìm vào lãng quên, để lại đằng sau các Kim tự tháp Giza như là một minh chứng cho các thành tựu của mình, và có lẽ cũng là một lời cảnh báo rằng: ngay cả những xã hội phát triển nhất cũng có thể bị hủy diệt hoàn toàn.

Manetho linh mục người Sebennyte, vào thế kỷ 4 TCN đã cố gắng biên dịch bộ biên niên sử hoàn chỉnh đầu tiên về lịch sử Ai Cập. Ông đã viết rằng các “thần” đã từ nơi khác đến trị vì Ai Cập, dạy người dân vùng sông Nile những kiến thức cơ sở của một nền văn minh cao cấp.


Cao nguyên Giza

Khi chúng ta nhìn vào các thần thoại lịch sử, các câu chuyện về nguồn gốc của kim tự tháp, chúng ta phát hiện ra rằng kim tự tháp không thuộc về bất kỳ Pharaông nào, mà là sản phẩm các vị “thần” cổ xưa. Từ các văn bản Ai Cập nói về Kim tự tháp, cho đến Marcellinus người La Mã, đến Al Masudi Coptic và Ibn Abd Alhokim người Ả Rập – đều viết rằng Kim tự tháp Giza được xây dựng bởi các “thần” của Tepi Zep. Họ đều kể lại rằng chúng đã được xây lên để bảo tồn kiến thức và nền văn minh tuyệt vời tránh khỏi bị hủy diệt bởi một trận Đại hồng thủy như thế nào, và rằng Trận Lụt này đã kết liễu triều đại của “thần” như thế nào. Nếu điều này là đúng, thì các Kim tự tháp Giza phải có từ ít nhất 12.000 năm trước.



Có rất nhiều bằng chứng cho thấy người Ai Cập cổ đã không xây dựng các kim tự tháp Lớn. Lớp trầm tích dày tới 4,3 m quanh nền móng kim tự tháp có chứa nhiều vỏ sò hóa thạch, cùng với bộ xương của 1 con bò biển hóa thạch, tất cả đã được xác định niên đại bằng phương pháp cácbon phóng xạ là gần 11.600 năm tuổi (cộng trừ 30 năm). Còn có các văn bản cổ xưa nói về những ngấn nước trên những phiến đá ở lưng chừng các mặt bên của kim tự tháp Lớn, cùng với những lớp muối biển tìm thấy bên trong nó.


Nhìn cận cảnh một khoảnh đất gần kim tự tháp Lớn. Có rất nhiều hóa thạch xung quanh khu vực này.
Các trầm tích này lắng đọng lại với khối lượng lớn như vậy, thì chỉ có thể là do một trận lũ lụt biển rất lớn gây ra. Tất nhiên các triều đại Ai Cập không bao giờ có thể ghi chép lại được sự kiện đó vì họ mới định cư tại khu vực này khoảng hơn 6.000 năm trước đây mà thôi. Chỉ riêng bằng chứng này cũng đủ cho thấy 3 kim tự tháp chính ở Giza có ít nhất 12.000 năm tuổi.

Các truyền thuyết và các ghi chép bí ẩn cũng kể về những ngấn nước từng in dấu rõ ràng trên những phiến đá vôi của lớp vỏ kim tự tháp trước khi chúng bị người Ả Rập lấy đi. Những ngấn nước này nằm ở lưng chừng các mặt bên của kim tự tháp, khoảng 120 m trên mực nước hiện tại của sông Nile.


Một bức tranh minh họa Biruni đang viết sách, do người Iran vẽ. Người Nga và người Afghanistan còn in chân dung của ông lên con tem của họ để tưởng nhớ

Nhà sử học vĩ đại người Ba Tư thời trung cổ là Abū Rayhān al-Bīrūnī, đã viết trong luận thuyết “Biên niên sử các quốc gia cổ đại” như thế này: “Những người Ba Tư và rất nhiều pháp sư thuật lại rằng: các cư dân ở phía tây, khi được cảnh báo bởi những nhà hiền triết của mình, họ đã xây dựng các tòa nhà của Vua và các Kim tự tháp Giza. Các dấu vết của nước trong trận Đại hồng thủy và các tác động của sóng vẫn còn nhìn thấy ở lưng chừng các kim tự tháp, nơi mà nước không dâng tới.”

Hơn nữa, khi Kim tự tháp Lớn lần đầu tiên được mở ra, những lớp muối dày khoảng 2,5cm đã được tìm thấy bên trong. Trong khi phần lớn muối này được cho là muối tự nhiên rỉ ra từ những khối đá của kim tự tháp, phân tích hóa học đã cho thấy rằng một phần trong số muối trên có thành phần khoáng chất của muối biển. Những lớp vỏ muối này, được tìm thấy ở độ cao tương ứng với các ngấn nước còn lại ở bên ngoài, là bằng chứng nữa cho thấy tại một thời kỳ nào đó trong quá khứ xa xưa, kim tự tháp này đã bị ngập một phần trong nước biển.

Chúng ta đã biết 12.000 năm trước, trái đất đã trải qua một thảm họa gây thay đổi vị trí các địa cực. Sự thay đổi có hình thức của một chấn động mạnh, hành tinh bị mất cân bằng trong giây lát, sau đó các cực nhanh chóng tái lập vị trí gần như cũ, chỉ lệch đi khoảng vài phút, nhưng gây ra dao động kéo dài trong sự quay của Trái Đất mà hiện nay vẫn còn đo thấy.



Một số nhà nghiên cứu tin rằng sự kiện đó có thể là bởi một thiên thạch hoặc sao chổi va chạm Trái đất. Hồ sơ địa chất cho chúng ta biết, mặc dù sự thay đổi là rất nhỏ, nhưng nó đã tàn phá và gây dịch chuyển vỏ trái đất trên diện rộng. Trong “Phòng vua” trong kim tự tháp Lớn, 75 tấn đá khối lớn tại phía nam của trần phòng bị nứt và đổ vỡ, và khắp đáy Kim tự tháp cũng như trong Hành lang đi xuống có nhiều vết nứt lớn trong đá, tất cả chỉ ra rằng kim tự tháp đã từng phải trải qua một chấn động to lớn. Nó đã vẫn đứng vững sau một cuộc dịch chuyển địa cực? Nếu vậy, thì các kim tự tháp Giza đã được xây dựng từ ít nhất 12.000 năm trước.

Như vậy, các kim tự tháp Giza là những tượng đài hoàn toàn thuộc về một thời đại xa xôi, khi một nền văn minh lớn đã phát triển rực rỡ chết đi và chìm vào lãng quên, để lại đằng sau các Kim tự tháp Giza như là một minh chứng cho các thành tựu của mình, và có lẽ cũng là một lời cảnh báo rằng: ngay cả những xã hội phát triển nhất cũng có thể bị hủy diệt hoàn toàn. Và đó là nền văn minh nào? Nền văn minh nào đã để lại những kiến thức cao siêu được mã hóa tinh vi trong các kim tự tháp, mà thậm chí hiện nay chúng ta vẫn chưa hiểu được? Ngay cả với trình độ khoa học ngày nay, chúng ta cũng không thể xây dựng nổi một bản sao chính xác của Kim tự tháp Lớn.

Một sự kiện nào đó đã xảy ra vào khoảng 12.000 năm trước. Một vùng đất bí ẩn đã mãi mãi biến mất bên dưới Đại Tây Dương. Plato, trong tác phẩm Timaeus và Critias của mình, đã giữ gìn được những ghi chép lịch sử về sự hủy diệt này. Plato đã kế thừa những ghi chép ấy từ tổ tiên của ông là Solon – người đã ghi chép lại câu chuyện đó từ các thầy tế Ai Cập khi họ trực tiếp đọc cho ông nghe nội dung các chữ khắc trên những cây cột của Đền thờ Neith tại Sais, ở vùng châu thổ sông Nile. Hôm nay, câu chuyện đã cho chúng ta biết về kết thúc bi thảm của một nền văn minh đã mất.

Thứ Năm, 30 tháng 6, 2011

Bí Ẩn Kim Tự Tháp Giza ( Phần III )

Bí ẩn các kim tự tháp Giza, Ai Cập (Phần 3)

Quan niệm cũ cho rằng các kim tự tháp Ai Cập được xây cách đây dưới 5.000 năm. Trong thực tế phần lớn là như vậy, nhưng 3 kim tự tháp Giza và một số công trình khác thì cổ xưa hơn nhiều, chừng 12.000 năm tuổi. Lạ thay, chúng không thuộc về người Ai Cập, mà thuộc về những nền văn minh tiền sử cao siêu nào đó, trước chu kỳ thời đại của chúng ta.

Các kim tự tháp Giza, tượng Nhân sư và một vài kiến trúc khác ở một số nơi khác ở Ai Cập không phù hợp với kiến trúc vào thời kỳ triều đại đó, mà dường như thuộc về những thời kỳ hết sức xa xôi. Trái với những ngôi đền Pharaông điển hình được xây dựng bằng những khối đá vôi nhỏ, ta thấy các cổng vào có mái đua và các bức tường, các đài kỷ niệm bí ẩn như “Ngôi đền Nhân Sư”, “Đền thờ” của Khafre và Menkhare, Osireion tại Abydos và ngôi đền bí ẩn tại Qasr el-Sagha… đều đã được xây dựng theo kiến trúc hoàn toàn khác biệt. Chúng được xây bằng những khối đá granit và đá vôi khổng lồ nặng tới 50-275 tấn, những bức tường và các cổng vòm trilithon xây bằng đá cự thạch, và đã hoàn toàn không có bất kỳ trang trí nào cả (các hình vẽ và chữ viết mà ta nhìn thấy hiện nay là bị đời sau thêm vào).

Các đặc điểm rất khác biệt của các kim tự tháp ở Giza có thể tóm tắt lại như sau:

Thứ nhất: Chỉ có các kim tự tháp Giza có các phòng ở phía trên cao bên trong chúng, tất cả các kim tự tháp còn lại chỉ có một một phòng thấp hoặc nhiều phòng gần móng. Đây là những bản sao của các phòng ngầm trong các kim tự tháp Giza. Người Ai Cập các triều đại không biết các phòng bí mật ở trên cao hơn, cho nên đã không xây phòng cao trong các kim tự tháp của họ.


Chỉ có các kim tự tháp nhỏ phía trước là có ghi chép của pharaông Khufu rằng ông ta đã xây dựng chúng, và ngày nay chúng đều đã hư hại nặng vì chất lượng xây dựng kém.
Trong khi đó, các kim tự tháp Giza lớn phía sau có cấu trúc tinh vi chính xác, sử dụng lối kiến trúc và công nghệ xây dựng cực cao, và tồn tại vững vàng cho tới ngày hôm nay. Không hề có bản khắc chữ Ai Cập cổ đại nào xác nhận rằng chúng do các pharaông Ai Cập xây dựng. Và, không giống như những kim tự tháp khác, các kim tự tháp Giza không hề có biểu tượng tôn giáo hoặc hình vẽ trong các “hòm” bên trong chúng. Tóm lại người Ai Cập không phải là chủ nhân của 3 kim tự tháp Giza lớn, mà chúng thuộc về những thời kỳ vô cùng xa xưa, vượt trên khả năng hiểu biết của loài người.


Thứ hai, chỉ có ba kim tự tháp Giza có định hướng chính xác theo la bàn, đồng thời cho thấy rất nhiều kiến thức khoa học tinh vi về phép đo Trái đất và về xây dựng. Các yếu tố này không có trong các kim tự tháp khác.

Thứ ba, chỉ có các kim tự tháp Giza được xây dựng với một độ chính xác rất cao, sử dụng thành thục những tảng đá xây dựng nặng nhiều tấn, giúp chúng có thể đạt được kích thước khổng lồ, lớn nhất Ai Cập. Chúng thực sự khác biệt hẳn với tất cả các cấu trúc khác dọc theo sông Nile.

Thứ tư, tổ hợp Giza sử dụng thiết kế xây dựng hoàn toàn xa lạ so với bất kỳ dạng kim tự tháp nào khác. Nhà nghiên cứu William Fix quan sát:

“Bởi vì các kim tự tháp khác bao gồm các khối nhỏ hơn nhiều, chúng được xây dựng như là một hệ khung gồm nhiều bức tường bên trong để cố kết. Ba kim tự tháp Giza lớn không có những vỏ bọc bên trong như thế. Kích cỡ riêng của các khối đá tạo ra sự ổn định cần thiết. Đặc điểm này cho thấy một sự xuất sắc trong tay nghề và khả năng công nghệ cao hơn nhiều so với bất cứ nơi nào khác.”

Và thứ năm, không giống như những kim tự tháp được cho là được xây dựng trước hoặc sau chúng, các kim tự tháp Giza không hề có biểu tượng tôn giáo hoặc hình vẽ trong các “hòm” bên trong chúng.

Có những bằng chứng cho thấy rằng các vị vua Ai Cập đã chỉ xây các kim tự tháp con xung quanh 3 kim tự tháp Giza mà thôi, và ngày nay hầu như đều hư hỏng nặng vì chất lượng xây dựng kém hơn của chúng. Rất có thể các vị vua sau đời vua Senefru đã từ bỏ ý định xây dựng các bản sao của các kim tự tháp Giza, khi thấy Senefru đã hết sức cố gắng sao chép lại chúng nhưng không thể làm nổi.

Pharaông Sekhemket, đã cố gắng xây dựng một kim tự tháp, nhưng không hoàn thành được, và ngày nay chỉ còn là một đống đổ nát. Các nhà khảo cổ đã tìm thấy ở dưới đáy của một đường thông bên dưới kiến trúc này một cái hòm bằng đá thạch cao tuyết hoa đậy kín. Khi chiếc hòm đá được mở ra, thì nó hoàn toàn trống rỗng giống như chiếc hòm rỗng tìm thấy trong kim tự tháp Lớn.


Kim tự tháp của Sekhemkhet pharaông triều đại thứ 3, xây dựng dở dang

Pharaông Senefru, đã xây dựng ba công trình, và có mọi lý do để tin rằng ông đã cố gắng sao chép theo các Kim tự tháp Giza. Các kim tự tháp của ông chứa đựng lượng đá bằng 2/3, bao phủ một khu vực rộng bằng 90% các kiến trúc Giza. Một trong những khác biệt rõ ràng là thiết kế xây dựng và sự xây nề rất thô, khi so sánh với tổ hợp kiến trúc Giza.


Phần xây nề rất thô của kim tự tháp Đỏ do Pharaông Senefru xây

Pharaông đầu tiên của triều đại thứ 5, Shepeskaf, đã chỉ xây cho mình một nhà mồ bình thường. Đến đời pharaông Userkaf, chất lượng xây dựng kém đã làm cho nó chỉ còn là một đống tàn tích ngày hôm nay. Các pharaông tiếp theo là Sahure, Nieswerre và Nefirirkare đã cố gắng xây dựng 3 kim tự tháp bằng đá tại Abu Sir, nhưng không thể đạt tới kích thước và chất lượng của bộ ba kim tự tháp Giza, và ngày nay cũng chỉ còn là những đống đổ nát. Đó cũng là tình trạng chung của tất cả các kim tự tháp khác.


Pharaông đầu tiên của triều đại thứ 5, Shepeskaf, đã chỉ xây cho mình một nhà mồ bình thường




Kim tự tháp của pharaông Userkaf, của pharaông Sahure, của pharaông Neferirkare, tất cả đều rất nhỏ bé có chất lượng xây dựng, kiến trúc và công nghệ rất kém so với 3 kim tự tháp Giza. Ngày nay chỉ còn là những đống đổ nát.





Các kim tự tháp khác của các pharaông đời sau đều cũng trong tình trạng tương tự. Công nghệ kỳ diệu của các kim tự tháp Giza, nếu là của vương triều thứ 4, thì đến các vương triều sau đó công nghệ ấy đã đi đâu, tại sao suy tàn đột ngột như vậy? Điều này cho thấy 3 kim tự tháp Giza không thuộc về vương triều thứ 4, nghĩa là không phải của người Ai Cập, mà thuộc về quá khứ xa xăm.

Trong tất cả 23 kim tự tháp chính được dựng lên sau Triều đại thứ tư, việc xây dựng đã được thực hiện một cách vội vàng, ít quan tâm đến độ chính xác, và sử dụng các khối đá cuội thô kệch. Chúng ta buộc phải đặt ra câu hỏi, rằng nếu các Kim tự tháp Giza đã được xây dựng trong Triều đại thứ tư, thì điều gì đã xảy ra với kiến thức cao cấp đã được sử dụng để thiết kế và xây dựng ra chúng? Tại sao kiến thức ấy không bao giờ được sử dụng một lần nữa, dù chỉ trong 1 kim tự tháp nào khác sau này (và cả “trước đó”)?

Có những người cố ý một cách bí ẩn, từ chối xác minh niên đại thực sự của các kim tự tháp một cách nghiêm túc. Họ cố gắng một cách kỳ lạ khi thuyết phục người khác rằng kim tự tháp Giza được xây vào giai đoạn đầu Triều đại thứ tư. Tuy nhiên, sự thật vẫn là sự thật. Có quá nhiều bằng chứng cho thấy các Kim tự tháp Giza đã có từ trước khi người Ai Cập tới định cư bên sông Nile, và chính điều đó là động lực đã thúc đẩy các pharaông Ai Cập xây dựng các kim tự tháp khác cho mình.